kháng kháng sinh ở việt nam

Thử nghiệm tính nhạy cảm kháng sinh rất quan trọng để đưa ra phác đồ điều trị tối ưu trên lâm sàng. NGHIÊN CỨU: Trong năm 2008, chúng tôi phân lập được 103 chủng H. pylori từ niêm mạc dạ dày ở bệnh nhân nhiễm H. pyroli tại 2 nơi ở Việt Nam (Hồ Chí Minh và Hà Nội Nhằm mục đích trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn trong việc lựa chọn kháng sinh, BVĐK Tâm Anh Hà Nội tổ chức hội thảo trực tuyến chủ đề "Lựa chọn kháng sinh trong thời kỳ đa kháng thuốc". Hội thảo diễn ra từ 13h30-16h45 ngày 22/7 qua nền tảng Zoom Webinar, dưới Thuốc kháng sinh nhắm vào vi khuẩn có hại, nhưng chúng cũng có thể tiêu diệt vi khuẩn có lợi sống trong ruột có thể dẫn đến chứng loạn khuẩn, rối loạn sự cân bằng giữa các vi khuẩn và nấm khác nhau. Sau đó vi khuẩn gây bệnh, hoặc nấm như Candida có cơ hội phát triển. Atm Online Lừa Đảo. Thực trạng kháng kháng sinh KKS đã trở thành vấn đề toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển - nơi mà các loại bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu bệnh tật. Những năm gần đây, các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực y tế tại Việt Nam cho thấy, vi khuẩn KKS hiện đang ở mức độ cao với các chủng đa dạng, kháng đa kháng sinh và cơ chế lây truyền phức tạp. Đặc biệt, nghiên cứu của TS. BS Trần Huy Hoàng đã phát hiện được các vi khuẩn gram âm mang các gen như NDM-1, KPC kháng lại carbapenem là nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay và thuộc nhóm “lựa chọn cuối cùng” của các chủng vi khuẩn Gram âm phân lập trên các bệnh nhân nhiễm khuẩn bệnh viện và trong môi trường bệnh viện. Không chỉ trong môi trường bệnh viện, các chủng vi khuẩn kháng các kháng sinh mạnh nhất hiện còn xuất hiện ở ngoài cộng đồng. Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực y tế đã khẳng định, xu hướng KKS tại Việt Nam ngày càng gia tăng và nguy hiểm là sự lây lan nhanh chóng các gen mã hoá tính KKS thông qua trung gian plasmid. Thực tế, từ năm 2010, ngành y tế Việt Nam đã nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của vi khuẩn KKS đe doạ tới công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Theo đó, nhiều giải pháp đã được triển khai, như Nâng cao công tác phòng chống nhiễm khuẩn trong bệnh viện; xây dựng kế hoạch hành động phòng chống vi khuẩn KKS giai đoạn 2010 - 2020; thực hiện một số nghiên cứu dưới sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và Bộ Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, do công nghệ, kỹ thuật nghiên cứu còn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài nên việc khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam chưa đạt kết quả khả quan. Theo đó, việc thực hiện Đề tài nghiên cứu “Đánh giá thực trạng kháng kháng sinh của vi khuẩn tại Việt Nam, xác định đặc điểm cấu trúc gen và yếu tố liên quan của các vi khuẩn kháng thuốc thường gặp ở Việt Nam” là cần thiết, nhằm mang lại thêm giải pháp nhanh chóng và hiệu quả để khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu do TS. BS Trần Huy Hoàng làm chủ nhiệm đã thực hiện nhiều phương pháp nghiên cứu sâu với các kỹ thuật tiên tiến, như Định danh nhanh vi khuẩn, nấm bằng hệ thống máy định danh khối phổ - MALDI Biotyper ứng dụng công nghệ MALDI TOF MS; kỹ thuật PCR phát hiện gen KKS của các chủng vi khuẩn; kỹ thuật kháng sinh đồ - khoanh giấy khuếch tán; kỹ thuật xác định nồng độ kháng sinh tối thiểu ức chế vi khuẩn; điện di xung trường PFGE, MLST, Southern blot và kỹ thuật giải trình tự toàn bộ hệ gen vi khuẩn bằng máy giải trình tự gen thế hệ mới Miseq để nghiên cứu nhằm đánh giá các đột biến của vi khuẩn kháng kháng sinh, sự lây lan của vi khuẩn này trong các bệnh viện, giữa các bệnh viện và trên thế giới ở mức độ phân tử;… Dưới sự hỗ trợ về trang thiết bị, sinh phẩm và chuyển giao công nghệ tiên tiến nhất hiện nay từ các chuyên gia hàng đầu thế giới cho các thành viên trong nhóm nghiên cứu đã giải quyết được triệt để các vấn đề về công nghệ và ngang tầm với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Hệ thống giải trình gen Miseq của Illumina nghiên cứu nhằm xác định các đột biến của vi khuẩn kháng kháng sinh. Góp phần làm giảm tình trạng kháng kháng sinh Sau 3 năm nghiên cứu kiên trì và bài bản, kết quả thu được từ dự án nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực trong tiến trình chống lại vi khuẩn KKS ở Việt Nam. Việc phân tích sâu các vi khuẩn KKS ở mức độ phân tử đã giúp nâng cao hiệu quả điều trị, phòng chống sự lây lan, giảm gánh nặng chi phí do vi khuẩn KKS gây nên cho gia đình và xã hội. Đồng thời, giúp nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của Việt Nam sánh ngang với các quốc gia trong lĩnh vực xét nghiệm chuyên sâu KKS. Nhóm nghiên cứu đã hoàn thành báo cáo về tỷ lệ gen kháng, phân bố tính kháng theo loại bệnh, địa diểm, giới, tuổi, khoa điều trị. Tình trạng KKS ở cộng đồng, tình trạng lây truyền vi khuẩn kháng thuốc của 6/10 loại vi khuẩn; hoàn thành báo cáo đặc điểm cấu trúc gen của một số vi khuẩn KKS bao gồm E. coli, K. pneumoniae, P. aeruginosa tại bệnh viện. Tuy nhiên, theo TS. BS Trần Huy Hoàng, sản phẩm lớn nhất của nghiên cứu là xây dựng thành công kỹ thuật khoanh giấy kháng sinh khuếch tán, kỹ thuật PCR phát hiện gen KKS đạt ISO 15189 và quy trình ứng dụng phần mềm phân tích hệ gen để hình thành và vận hành phòng xét nghiệm tham chiếu quốc gia về giám sát KKS tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương. Cùng với đó là việc xây dựng thí điểm mạng lưới vệ tinh giám sát KKS với quy trình kháng sinh đồ cụ thể tại 4 bệnh viện, gồm Thanh Nhàn, Xanh Pôn, Quân đội 108, Hữu nghị Việt Xô và 4 cộng đồng, gồm Hà Nam, Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương. Tổ chức Y tế Thế giới WHO xếp Việt Nam vào danh sách các nước có tỷ lệ kháng thuốc kháng sinh cao nhất thế giới, do đó sự ra đời của phòng xét nghiệm tham chiếu quốc gia về genome tại Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương có ý nghĩa đặc biệt. Phòng xét nghiệm này có chức năng khẳng định kết quả nuôi cấy, phân lập, định danh và làm kháng sinh đồ. Đồng thời, thu thập, phân tích và báo cáo số liệu định kỳ về KKS để Bộ Y tế và các cơ quan liên quan tìm ra giải pháp ứng phó kịp thời, cũng như xây dựng chiến lược phòng chống kháng thuốc ở tầm quốc gia và khu vực cũng như trên thế giới. Theo Thứ trưởng Bộ Y tế - GS. TS Trần Văn Thuấn, một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng vi khuẩn KKS trong cộng đồng là do người dân cứ ốm là ra hiệu thuốc mua thuốc kháng sinh về điều trị, thậm chí còn mượn đơn kháng sinh của người khác về dùng cho mình, cho con mình. Còn lại do một số bác sỹ ở các cơ sở y tế chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về sử dụng kháng sinh hợp lý hoặc kê thuốc kháng sinh quá liều, không phù hợp cho bệnh nhân. Do đó, bên cạnh việc tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ y bác sỹ thì việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân là rất cần thiết. Đặc biệt, cần bổ sung xây dựng các chính sách để quản lý, nghiên cứu khoa học nhằm khắc phục tình trạng KKS ở Việt Nam. Bảo Lâm trạng kháng kháng sinh2. Kháng sinh và kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam3. Nguyên nhân gây nên tình trạng kháng kháng sinh ở Việt nhân phát sinh từ y tế và nông Nguyên nhân phát sinh từ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản4. Hậu quả do kháng kháng sinh gây trạng kháng kháng sinh Kháng sinh là những hợp chất có thể tiêu diệt hoặc ngăn cản sự tăng trưởng của các vi sinh vật như vi khuẩn, nấm mốc hoặc động vật nguyên sinh. Kháng sinh được sử dụng rất nhiều trong vài thập kỷ gần đây giúp loài người đạt được những tiến bộ vượt bậc trong điều trị bệnh cho người và động vật. Kháng sinh cũng là một công cụ thiết yếu để ngăn chặn và kiểm soát các dịch bệnh truyền nhiễm góp phần cải thiện năng suất chăn nuôi, an ninh lương thực và an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị của kháng sinh bị giảm do xuất hiện hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc, bằng chứng là đã phân lập được các vi khuẩn này từ người, động vật, thức ăn và môi trường. Hiện nay, đã xác định được vi khuẩn có hơn 890 loại enzym kháng kháng sinh, nhiều hơn số lượng các loại kháng sinh đã được sản xuất và phần lớn các gen mã hóa các enzym này nằm trên các plasmid có thể truyền dễ dàng trong quần thể vi khuẩn cùng và khác loài. Sự lây nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh làm cho điều trị bệnh nhiễm khuẩn kém hiệu quả hoặc thất bại, tác động không tốt tới lâm sàng và thậm chí dẫn tới tử vong. Ước tính mỗi năm có khoảng người trên thế giới tử vong do lây nhiễm các chủng vi sinh vật gây bệnh thông thường như lao, sốt rét hoặc các vi khuẩn bội nhiễm từ HIV; Đến năm 2050, con số này ước tính có thể tăng lên đến 10 triệu ca tử vong, một trong những nguyên nhân là sự gia tăng hiện tượng kháng thuốc. Số ca tử vong của Châu Á lên tới người. Xã hội sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn và GDP của thế giới có thể giảm từ 2-3,5% so với GPD có thể đạt được vào năm 2050. Hiện nay, mức độ kháng kháng sinh tại Việt Nam chưa xác định được chính xác, nhưng qua việc thực hiện giám sát kháng kháng sinh cho thấy Việt Nam có mức độ kháng kháng sinh cao và ngày một gia tăng. Một nghiên cứu thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy vi khuẩn phân lập được từ các bệnh nhân nội trú và 81% vi khuẩn Enterobacteriaceae phân lập được tại các khoa hồi sức cấp cứu có men Beta-lactamase phổ rộng ESBL. Men β lactamase phổ rộng có khả năng phân giải hầu hết các loại kháng sinh thuộc nhóm β lactam đặc biệt đối với các Penicillin và các Cephalosporin thế hệ thứ 3. Tình trạng kháng thuốc fluoroquinolones trong Salmonella Typhi thương hàn phân lập được đã tăng từ 4% lên 97% trong giai đoạn từ năm 1993 đến 2005. Tình trạng kháng thuốc Tetracycline and Chloramphenicol cũng ngày càng tăng. Đồng thời, từ 1997-2008 việc xuất hiện tình trạng gia tăng khả năng kháng thuốc ở vi khuẩn Streptococcus suis, vi khuẩn gây bệnh liên cầu lợn là nguyên nhân chủ yếu gây viêm màng não ở người lớn tại Việt Nam. 2. Kháng sinh và kháng kháng sinh trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam Trong chăn nuôi, kháng sinh được sử dụng để phòng, điều trị dự phòng, điều trị bệnh hoặc là kích thích sinh trưởng. Kháng sinh được dùng để phòng bệnh trong trường hợp một cá thể hoặc một đàn vật nuôi khỏe mạnh bị phơi nhiễm với các yếu tố nguy cơ gây bệnh truyền nhiễm. Kháng sinh được dùng để điều trị dự phòng trong trường hợp điều trị cho những con vật cùng nhóm con vật bị ốm. Kháng sinh được sử dụng điều trị bệnh cho cho vật nuôi có triệu chứng về bệnh truyền nhiễm. Kháng sinh được dùng với mục đích kích thích tăng trưởng trong trường hợp được bổ sung vào thức ăn cho vật nuôi với liều thấp hơn liều điều trị bệnh nhằm tăng cường sự chuyển hóa thức ăn của động vật, để giảm thời gian nuôi dưỡng cũng như giảm tổng lượng thức ăn trong một chu trình chăn nuôi Chăn nuôi đóng góp 30% tổng sản lượng nông nghiệp của Việt Nam, trong đó chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ và vừa chiếm 70% tổng giá trị của ngành chăn nuôi. Hàng năm, ngành chăn nuôi xuất chuồng khoảng 29,1 triệu con lợn và 364,5 triệu con gia cầm gà và vịt. Nuôi trồng thủy sản cũng phát triển rất nhanh. Năm 2010, Việt Nam đã sản xuất được tổng số 1,3 triệu tấn cá da trơn và tấn tôm, riêng sản lượng xuất khẩu đã thu về 2,8 tỉ USD. Một số nghiên cứu thực hiện trong giai đoạn này cho thấy, song song với việc phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản là việc sử dụng kháng sinh rộng rãi để hỗ trợ cho quá trình điều trị và kiểm soát bệnh dịch ở ngành sản xuất này. Khảo sát trên 208 trang trại chăn nuôi gia cầm ở tỉnh Tiền Giang cho thấy mức độ sử dụng kháng sinh rất cao lượng kháng sinh sử dụng tính theo đầu gia cầm cao gấp 6 lần so với mức ghi nhận được ở một số nước châu Âu, trong đó có đến 84% kháng sinh được sử dụng để phục vụ mục đích phòng bệnh. Việc sử dụng thức ăn chăn nuôi trộn sẵn kháng sinh chiếm tỷ lệ rất cao. Trong mỗi chu kỳ chăn nuôi 72% số trang trại chăn nuôi sử dụng ít nhất một loại kháng sinh để phòng bệnh hoặc kích thích tăng trưởng. Việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi lợn bị cũng bị lạm dụng 286,6 mg hoạt chất /kg lợn hơi. Đặc biệt, một số loại kháng sinh được cho là quan trọng đối với điều trị bệnh ở người cũng được dùng trong chăn nuôi. Đồng hành với khảo sát về tình trạng sử dụng kháng sinh, các nghiên cứu về vi khuẩn kháng thuốc trên động vật và sản phẩm động vật cũng đã được thực hiện. 202 chủng Campylobacter spp phân lập được từ 343 trang trại chăn nuôi lợn và gia cầm ở Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ kháng thuốc như sau 100% kháng Erythromycin, 99% kháng Sulfamethoxazole-Trimethoprim, 92% kháng Nalidixic acid và Ofloxacin và 20,8% kháng Ciprofloxacin. Ngoài ra, trong số 895 chủng Escherichia coli phân lập được từ 208 trang trại chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ ở khu vực này có tỷ lệ kháng Gentamicin 20% và kháng tượng kháng thuốc Ciprofloxacin chắc chắn liên quan đến việc sử dụng Quinolone tại trang trại. Kết quả khảo sát kháng kháng sinh của vi khuẩn Salmonella spp phân lập được từ 318 mẫu thịt lợn, gà từ các chợ bán lẻ của Miền Bắc Việt nam cho thấy vi khuẩn này kháng Tetracycline là Sulphonamides là Streptomycin là Ampicillin là Chloramphenicol là Trimethoprim là và Nalidixic acid là Kết quả nghiên cứu kháng kháng sinh trên sản phẩm thủy sản cũng cho thấy 18% chủng Escherichia coli phân lập được từ 60 mẫu tôm từ một chợ ở Nha Trang có enzyme ESBL, 55% chủng này kháng với nhiều loại thuốc. 3. Nguyên nhân gây nên tình trạng kháng kháng sinh ở Việt Nam nhân phát sinh từ y tế và nông nghiệp a Do việc sử dụng thuốc kháng sinh không thích hợp như sử dụng quá liều, dưới liều hoặc lạm dụng thuốc đều gây ra tình trạng kháng thuốc, tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật kháng thuốc xuất hiện, biến đổi và lây lan. Tự mua kháng sinh tự điều trị không theo đơn của bác sỹ nhân y trong điều trị bệnh cho người và bác sỹ thú y trong điều trị bệnh cho động vật. Thuốc điều trị không phù hợp với loại, chủng vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng gây bệnh. Sử dụng không đúng liều lượng, hàm lượng, thời gian sử dụng. b Công tác kiểm nghiệm, kiểm tra chất lượng thuốc còn hạn chế, hệ thống kiểm tra chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế; chưa bảo đảm kiểm soát được chất lượng của tất cả các lô hàng sản xuất khác nhau của từng loại sản phẩm lưu hành trên thị trường. c Phòng và kiểm soát các bệnh truyền nhiễm ở người và động vật chưa hiệu quả làm tăng sự lan truyền của vi khuẩn kháng thuốc. Người bệnh, động vật, thủy sản bị bệnh được điều trị là một nguồn lan truyền các vi sinh vật đề kháng sang người khác, động vật khác và môi trường. Nguyên nhân phát sinh từ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản Chưa có đầy đủ các quy định về quản lý, sử dụng kháng sinh cho các mục đích điều trị, phòng chống bệnh, kích thích tăng trưởng, kiểm soát nhiễm khuẩn, kiểm soát lây lan vi khuẩn kháng thuốc trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam. Thực thi các quy định của pháp luật chưa cao. Chưa thiết lập được hệ thống giám sát kháng thuốc trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Việc giám sát về kháng thuốc mới chỉ được thực hiện tại một số đề tài nghiên cứu và dự án, chưa được thực hiện thường xuyên. Chưa có được kết nối giữa hệ thống giám sát thuốc kháng sinh trong y tế và nông nghiệp. Thiếu các cơ sở xét nghiệm có thể đủ năng lực để xác định chính xác vi sinh vật đề kháng dẫn đến khó khăn trong việc phát hiện các vi sinh vật đề kháng mới nổi. Lạm dụng kháng sinh trong việc phòng chống bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Lạm dụng kháng sinh với mục đích kích thích tăng trưởng. Việc sử dụng kháng sinh với liều thấp hơn mức trị bệnh làm gia tăng khả năng kháng thuốc của vi khuẩn và vi sinh vật này rất dễ lây sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp với động vật hoặc lây lan gián tiếp thông qua việc tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, hoặc tiếp xúc với những vi khuẩn kháng thuốc mà động vật phát tán ra môi trường. Hạn chế về nhận thức kể cả các nhà chuyên môn và cộng đồng về sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh. Kháng sinh được mua bán không cần có đơn thuốc của bác sĩ thú y. 4. Hậu quả do kháng kháng sinh gây nên Mặc dù chưa định lượng được sự liên quan hoặc mức độ nghiêm trọng về việc sử dụng kháng sinh ở động vật làm tăng thêm gánh nặng kháng kháng sinh trong điều trị bệnh cho người, nhưng đã có những bằng chứng rất rõ ràng về vấn đề này. Vấn đề này được làm sáng tỏ với các bằng chứng thực tế là người và động vật cùng sử dụng một số loại kháng sinh giống nhau, với cùng một cơ chế tác động và cơ chế gây kháng thuốc. Sau gần 90 năm kể từ khi sử dụng thuốc kháng sinh, loài người đang phải đối mặt với tương lai một số bệnh nhiễm khuẩn không có thuốc kháng sinh điều trị hiệu quả, nhất là các điều trị nhiễm khuẩn liên quan tới phẫu thuật hóa trị liệu ung thư, cấy ghép mô và bộ phận cơ thể người. Việc phòng ngừa và điều trị các bệnh nhiễm trùng ở người và động vật sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều khi thuốc kháng sinh điều trị kém hoặc không hiệu quả. Chi phí về xã hội và tài chính trong điều trị các bệnh nhiễm khuẩn kháng thuốc đặt gánh nặng đáng kể lên mỗi cá nhân, gia đình và xã hội do thời gian điều trị kéo dài, tiên lượng xấu và lãng phí do chi phí vào những loại thuốc không phù hợp. Nguồn Thư viện pháp luật NANO NNA VIỆT NAM Tổ chức Y tế Thế giới xếp Việt Nam vào nhóm các nước có tỉ lệ kháng kháng sinh cao nhất thế giới. Từ năm 2009 đến nay, số lượng thuốc kháng sinh ở Việt Nam bán ra ngoài cộng đồng đã tăng gấp 2 lần. Nguyên nhân chính là do lạm dụng kháng sinh, có tới 88% kháng sinh tại thành thị được bán ra mà không cần kê đơn, ở nông thôn tỉ lệ lên đến 91%. Đã xuất hiện siêu vi khuẩn kháng tất cả các loại kháng sinh! Tại một hội nghị của Bộ Y tế về kháng thuốc cuối tháng Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhấn mạnh, tình trạng kháng thuốc ngày càng trầm trọng và là mối nguy sức khoẻ toàn cầu. Tình trạng kháng thuốc kháng sinh gây tác động lớn đến nền kinh tế, sự phát triển chung của xã hội. Không chỉ riêng đối với Việt Nam nó còn tác động đến tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay. Tình trạng kháng kháng sinh tại Việt Nam ngày càng gia tăng khi xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại thuốc. Tại hội nghị khoa học toàn quốc về hồi sức cấp cứu và chống độc 2017, GS Nguyễn Gia Bình – Chủ tịch Hội Hồi sức cấp cứu và Chống độc – bày tỏ lo ngại về tình trạng kháng kháng sinh tại nước ta. Theo ông, hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng của các vi khuẩn kháng nhiều nhóm kháng sinh. Trong đó tình hình kháng thuốc tại các tỉnh phía Nam nghiêm trọng hơn. Tại các khoa hồi sức tích cực, vấn đề này còn nan giải hơn, do nơi đây tập trung những bệnh nhân nặng nhất, qua nhiều khoa điều trị. Tại các tỉnh phía Nam, tỉ lệ Ecoli vi khuẩn đường ruột kháng kháng sinh lên tới 74,6%; tỉ lệ kháng của vi khuẩn gây nhiễm trùng lên tới gần 60%; vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện có tỉ lệ kháng với hầu hết các loại kháng sinh ở mức trên 90%… Với nhóm kháng sinh carbapenem, nhóm kháng sinh mạnh nhất hiện nay cũng có tỉ lệ lên tới 50%, đặc biệt là các vi khuẩn gram âm mang gen kháng thuốc như Beta lactamase. PGS-TS Lương Ngọc Khuê – Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh, Bộ Y tế – cho biết, trong khi nhiều quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ 1 có hiệu quả thì Việt Nam đã phải sử dụng tới kháng sinh thế hệ 3 và 4. Đáng lo ngại hơn, ở nước ta đã xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại kháng sinh. Phổ biến nhất là nhóm vi khuẩn gram âm đường ruột. Tình trạng các bác sĩ sử dụng kháng sinh không hợp lý cũng được cảnh báo. Theo khảo sát của BV Chợ Rẫy, khoảng 50% kháng sinh được bác sĩ kê đơn bất hợp lý; 32% bác sĩ chỉ định sử dụng kháng sinh cho các bệnh nhân không nhiễm khuẩn; 33% bác sĩ sử dụng kháng sinh kéo dài và không cần thiết… Trong khi tốc độ tìm ra kháng sinh mới trên thế giới không kịp so với mức độ gia tăng của các vi khuẩn kháng kháng sinh. Trong hơn 5 năm từ 1983 – 1987, cơ quan Quản lý Dược và Thực phẩm Mỹ mới chỉ cấp giấy chứng nhận sử dụng cho 18 loại kháng sinh. Còn từ năm 2008 đến nay không có thêm kháng sinh mới nào được tìm ra. Với tình hình này, WHO dự tính đến năm 2050, cứ 3 giây sẽ có một người do các siêu vi khuẩn kháng thuốc, tương đương với khoảng 10 triệu người mỗi năm. Khi đó, các bệnh thông thường như ho hay chỉ một cũng có thể gây Để hạn chế tình trạng này, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập nhóm kỹ thuật về giám sát kháng thuốc giai đoạn từ năm 2017-2020. Nhóm sẽ có nhiệm vụ tham gia phối hợp, đánh giá, báo cáo giám sát về kháng thuốc và đưa ra các giải pháp ngăn chặn sự gia tăng kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh thường gặp. Lo ngại kháng kháng sinh ở trẻ nhỏ! Ở trẻ nhỏ, tình trạng kháng kháng sinh cũng vô cùng Từ kết quả khám sàng lọc bệnh nhi đến khám và điều trị tại viện, PGS-TS Trần Minh Điển – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương – cho biết có khoảng 30% bệnh nhi có vi khuẩn kháng thuốc. Một trong những nguyên nhân làm trẻ có vi khuẩn kháng thuốc là do nhiều trẻ được các ông bố bà mẹ tự ra hiệu thuốc mua thuốc điều trị với liều lượng kháng sinh không hợp lý. Thực tế thăm khám cho các bệnh nhi, PGS-TS Nguyễn Tiến Dũng – nguyên Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai – đã gặp rất nhiều trường hợp cha mẹ tự làm bác sĩ, tự ý mua thuốc điều trị cho con làm ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ và gây khó khăn cho quá trình điều trị của bác sĩ. Bởi, việc cha mẹ tự ý cho trẻ dùng thuốc kháng sinh, dùng với liều lượng không thích hợp sẽ gây ra tình trạng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh. Điều này sẽ làm cho quá trình điều trị bệnh trở nên khó khăn hơn, tốn nhiều thời gian hơn và làm trẻ mệt mỏi hơn. “Để kê được đơn thuốc cho bệnh nhân, bác sĩ chúng tôi phải học hỏi, trau dồi kỹ năng rất nhiều năm. Và kể cả những người đã có kinh nghiệm cũng phải thăm khám, hỏi han triệu chứng của bệnh nhân, rồi sau đó phải đắn đo, suy nghĩ mới kê được đơn thuốc” – bác sĩ Dũng cho biết. Đồng quan điểm với bác sĩ Dũng, bác sĩ Phạm Thanh Xuân – nguyên Phó Trưởng khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai – cũng cho rằng, cha mẹ áp dụng phương pháp hỏi “bác sĩ google” rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh là rất nguy hiểm. Không phải bệnh gì dùng thuốc kháng sinh cũng khỏi, nếu dùng không đúng sẽ đến sức khỏe. Đặc biệt, đối với trẻ nhỏ, việc kháng sinh trong điều trị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển và sức khỏe của trẻ. Không thể thấy các biểu hiện của bé giống bệnh này rồi tự ý mua thuốc điều trị bệnh. Hoặc không nên thấy các mẹ khác nói con họ bị như vậy dùng thuốc này là khỏi mà nghe theo và áp dụng vào con mình. Mỗi đứa trẻ là một cá thể khác nhau, phản ứng mỗi bé một khác, yếu tố cơ địa mỗi bé một khác nên cùng một bệnh nhưng với mỗi bé lại có cách điều trị riêng. Bác sĩ Xuân lấy ví dụ trường hợp bé chỉ xuất tiết mũi họng khò khè không phải do nhiễm khuẩn. Với trường hợp này mà dùng kháng sinh thì chắc chắn bé sẽ không đỡ và sẽ tái phát theo nguyên nhân gây nên yếu tố khò khè. Và cũng là dấu hiệu khò khè, chảy nước mũi kéo dài nhưng bé có tiền sử hen phế quản thì cách điều trị lại khác với bé không bị hen phế quản. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh không hiểu biết hoặc không tuân thủ chỉ định của bác sĩ. Bên cạnh đó, tình trạng thuốc, không đến khám bác sĩ mà tự ý ra hiệu thuốc mua thuốc về điều trị, mua thuốc theo đơn của người khác hoặc nghe theo sự mách bảo của người khác… cũng góp phần làm gia tăng số lượng và mức độ các trường hợp dị ứng thuốc. Và hậu quả của việc thuốc dẫn đến kháng thuốc là làm cho thời gian điều trị bệnh kéo dài, kéo theo sử dụng nhiều kháng sinh, sẽ lại ảnh hưởng đến kinh tế, giá thành điều trị tăng cao. Đặc biệt, nhiều khuẩn kháng thuốc còn khiến nguy cơ tăng cao, nhất là với Cre Thùy Linh – Báo Lao ĐộngShared by Phong Tuan/Gr Maybe You Missed This F***king News Post Views 85

kháng kháng sinh ở việt nam