không có vua nguyễn huy thiệp

Hiếm nhà văn nào ở Việt Nam mà sau khi ra đi vẫn khiến người ta tranh cãi về mình và tác phẩm của mình nhiều như Nguyễn Huy Thiệp. Nhân 100 ngày mất của ông, cuốn sách "Về Nguyễn Huy Thiệp" (NXB Dân Trí và nhãn sách Liên Việt) tập hợp bài viết của 34 tác giả trở thành cuốn sách thứ hai về chân dung tác Văn Nguyễn Huy Thiệp như thể là những "giọt máu" rỉ ra từ "tâm hồn mẹ", tâm hồn của một chủ thể trót đời đạt đạo, vừa đau đời vừa "thương cả cho đời bạc". Cuối Không có vua, Đoài phát biểu, rằng Rượu vừa ngọt vừa cay. Ai chấp nhận cuộc sống thì Nguyễn Huy Thiệp không hoàn toàn là con đẻ của Đổi mới, mà Đổi mới chỉ là ngọn gió nâng cánh Thiệp lên cao. Nhưng, công bằng mà nói, đôi cánh Thiệp cũng quạt gió trở lại, góp phần làm cho Đổi mới thành một phong trào. Không có vua, Tướng về hưu Atm Online Lừa Đảo. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp Nguyễn Huy Thiệp sinh năm 1950, quê huyện Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc… Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và lên dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980. Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu. Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau Về lịch sử và văn học Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương… Truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc “cổ tích” Những ngọn gió Hua Tát, Con gái thủy thần, Giọt máu, Muối của rừng, Chảy đi sông ơi, Trương Chi… Về xã hội VN đương đại Không có vua, Tướng về hưu, Cún, Sang sông, Tội ác và trừng phạt… Về đồng quê và những người dân lao động Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ… Tướng về hưu Thương nhớ đồng quê Mưa Nhã Nam Tội ác và trừng phạt Chảy đi sông ơi Những người thợ xẻ Sang sông Trương Chi Chút thoáng Xuân Hương Kiếm sắc Vàng lửa Phẩm tiết Mưa Nguyễn Thị Lộ Huyền thoại phố phường Cún Đời thế mà vui Những bài học nông thôn Cánh buồm nâu thuở ấy Muối của rừng Không có vua Giọt máu Con gái thủy thần Đưa sáo sang sông Sống dễ lắm Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt Những ngọn gió Hua Tát Mười truyện trong bản nhỏ Cô Sinh về làm dâu nhà lão Kiền đã mấy năm nay. Khi về, cô Sinh mang theo bốn bộ quần áo mỏng, một áo dạ mặc rét, hai áo len, một vỏ chăn hoa, bốn cái xoong nhôm một cái xoong bột, một cái phích hai lít rưỡi, một cái chậu tắm, một tá khăn bông, tóm lại là một đống tiền, nói như bà mẹ cô Sinh làm nghề buôn gạo ở chợ Xanh. Cậu Cấn chồng cô Sinh là thương binh. Họ quen biết nhau trong dịp tình cờ. Hai người cùng trú dưới hiên nhà trong một trận mưa. Chuyện này đã có người viết thế mới biết nhà văn ở ta xông xáo! Theo đồn đại, đại để đấy là một xen scène về tình yêu giản dị, trong sáng, không vụ lợi cuộc sống là duy vật biện chứng, hài hòa, đẹp, đáng yêu, Cấn là con trưởng. Dưới Cấn có bốn em trai, chênh nhau một, hai tuổi. Đoài là công chức ngành giáo dục, Khiêm là nhân viên lò mổ thuộc Công ty thực phẩm, Khảm là sinh viên đại học, Tốn, con út bị bệnh thần kinh, người teo tóp, dị dạng. Nhà lão Kiền sáu người. Toàn đàn ông. Bà Nhớn, vợ lão Kiền, mất đã mười một năm, lúc đó lão Kiền năm mươi ba tuổi, cái tuổi oái ăm, lấy vợ nữa cùng dở, không lấy vợ nừa cũng dở. Lão Kiền chọn cái dở ít hơn, ở vậy... Nhà lão Kiền trông ra mặt đường. Lão làm nghề chữa xe đạp. Cấn làm nghề cắt tóc khi mới quen Sinh, anh nói làm nghề dịch vụ. Được tiếp thu một nền giáo dục gia đình bình dân cha dạy học, mẹ buôn gạo, Sinh không phải là người có nhiều định kiến hẹp hòi. Hơn nữa, trong tính cách, thậm chí ở cô có phần phóng túng. Trình độ văn hóa hạn chế Sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở nhưng điều đó không can hệ gì. Với phụ nữ, học vấn giữ vai trò thứ yếu tạo nên sức mạnh thần thánh ở họ, điều này không phải chứng minh. Về làm dâu, lúc đầu Sinh khá ngỡ ngàng với không khí tự do trong nhà ăn cơm chẳng ai mời ai, sáu người đàn ông, ai cũng cởi trần, mặc quần đùi cười nói thản nhiên, chan chan húp húp như rồng cuốn. Sinh phục vụ cơm nước ba lần một ngày. Được cái việc nặng Sinh không phải làm, có Tốn giúp đỡ. Tốn suốt ngày lau nhà, giặt giũ. Nó không có khả năng làm việc gì khác. Cứ cái xô nhựa với tấm giẻ lau, khoảng vài tiếng nó lại lau nhà một lần. Nó không chịu được bẩn. Quần áo ai thay ra, nó cũng giặt mà giặt rất sạch, phơi phóng cẩn thận. Tốn ít nói, nếu ai hỏi gì, chỉ cười bẽn lẽn, trả lời nhát gừng. Vừa làm, nó vừa ti tỉ hát, không hiểu học được khi nào bài hát của bọn bợm rượu A ha... Không có vua Sớm đến chiều say sưa Tháng với ngày thoi đưa Tớ với mình dây dưa, Tình với tính hay chưa ...Mời bạn đón đọc. Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng..... Sau năm 1975, văn học Việt Nam vận động theo hai hướng khác nhau, một hướng với các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Mạnh Tuấn, Chu Lai, Xuân Trình, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Dương Thu Hương, Lê Lựu…văn học đổi mới theo khuynh hướng phản sử thi; và Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Hưng…là những nhà văn, nhà thơ đầu tiên đưa văn học nước nhà đổi mới theo một hướng khác, hướng thứ hai, có thể gọi là hậu hiện đại. Và như trên đã trình bày, Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam chỉ mang tính chất là yếu tố của hậu hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp cũng thế, yếu tố hậu hiện đại biểu hiện thông qua tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại của tác giả. Xin phân tích một vài đặc điểm trong truyện ngắn Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp để làm rõ điều này. Truyện Không có vua là truyện ngắn kể về cuộc sống trong gia đình lão Kiền. Cuộc sống ấy xoay quanh lão Kiền - một thợ chữa xe đạp; con trai đầu là Cấn - thợ hớt tóc cùng vợ mới cưới là Sinh; tiếp đến là Đoài - một công chức ngành giáo dục; Khiêm - một nhân viên lò mổ; Khảm - sinh viên đại học và Tốn - em út, bị bệnh thần kinh. Thông qua những sự việc xảy ra và cách nhân vật cư xử với nhau hằng ngày, tác giả nhằm gửi đến người đọc những thông điệp về sự tan vỡ của mối quan hệ trong gia đình và sự biến chất của đạo đức con người dưới sự biến động của xã hội. Tuy cùng sử dụng một chất liệu với các nhà văn cùng thời như những phương diện tạo nên mặt tối trong đời sống con người cá nhân hoặc trạng thái phong hóa xã hội, nhưng Nguyễn Huy Thiệp lại kể cho chúng ta những câu chuyện hoàn toàn khác hẳn. Đó là những câu chuyện với nhân vật trong Không có vua, một thế giới không hề có sự xuất hiện của nhân vật chính diện, một thế giới như các nhà nghiên cứu từng gọi là “cuộc đời vô nghĩa” trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Một giọng điệu kể khinh bạc, lạnh lùng, thậm chí tàn nhẫn phù hợp với câu chuyện tác giả đưa đến cho người đọc, câu chuyện của lão Kiền, Cấn, Đoài, Khâm…chạy theo những tham vọng phù du của đồng tiền; của cô Sinh lầm lũi chấp nhận cuộc đời vô vị bên người chồng thô bạo; của Khiêm với công việc giết mổ lợn, ngày ngày lấy trộm bộ lòng và hai cân thịt; của Tốn không chịu được bẩn, suốt ngày chỉ biết lau nhà, giặt giũ. Ta có cảm giác các nhân vật không hề nhìn về cuộc sống tương lai phía trước, chỉ là những mưu toan, tính toán chi ly cho miếng ăn hàng ngày, bởi họ quan niệm “có thực mới vực được đạo”. Có chăng thì chỉ là Đoài và Khảm, nhưng tương lai của họ là luồn cúi, nhờ vả để được tiến thân; là lấy cô Mỹ Trinh “con ông Ánh sáng ban ngày” để được hưởng của hồi môn. Những con người chỉ biết cặm cụi phục vụ cho cuộc sống vô nghĩa của mình, cho những tính toán nhỏ nhen, tầm thường. Sự lên ngôi của đồng tiền đã kéo theo nhiều sự đổ vỡ trong mối quan hệ gia đình. Ta không hề bắt gặp trong thế giới ấy đạo lý của gia đình. Tất cả các trật tự trong gia đình bị phá vỡ, xáo trộn con mỉa mai cha “một miếng vá xăm đáng một chục nhưng tương lên ba chục thì có đức đấy”; cha chửi rủa con; em chồng chọc ghẹo, đòi ngủ với chị dâu; cha chồng nhìn trộm con dâu tắm; em đánh anh…Còn nhiều thứ nữa khiến ta không dám khẳng định đây là một gia đình. Trạng thái nhân thế thì đảo điên,thiếu vắng chuẩn mực giá trị, điểm tựa tinh thần…có lẽ vì thế mà thế giới ấy trở nên vô nghĩa. Thế giới vô nghĩa trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp gần với cái thế giới bơ vơ, rối loạn, đảo lộn của Chủ nghĩa hậu hiện đại, con người không có niềm tin vào giá trị truyền thống và cuộc đời. Và kết thúc mỗi truyện ngắn, tác giả đưa cho người đọc một sự thật trớ trêu hoặc sự thất bại ê chề; điều này gần với kiểu tác giả hậu hiện đại-tân cổ điển. Chính điều này tạo nên trong lòng đọc giả tâm trạng hoài nghi đang tồn tại trong cuộc sống, vậy đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bên cạnh đó các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp còn phảng phất tư duy nghệ thuật của hậu hiện đại. Đó là nguyên tắc lạ hóa theo kiểu câu đố, một nền tảng cấu trúc của các trào lưu, trường phái hậu hiện đại. Câu đố chính là logic của cảm giác, tạo cho người nghe một cảm giác tươi rói như lần đầu được nghe bằng cách lạ hóa các khái niệm, tên gọi thân thuộc hàng ngày. Nguyên tắc lạ hóa ở đây chính là điểm nhìn mới mẻ của nhà văn về con người và đời sống. Tác giả khai thác tính cách của nhân vật đối lập với vai trò trong xã hội; tức là không dựa vào hình dáng, công việc mà khai thác trong những mối quan hệ của các nhân vật với nhau. Và tính cách ấy đối lập với nghề nhiệp của họ. Chẳng hạn, nhân vật Đoài-công chức ngành giáo dục, một nhân vật có học thức nhất trong gia đình lại được nhớ đến như kẻ đê tiện và xấu xa nhất. Lão Kiền không được miêu tả với việc sửa chữa xe đạp mà là bắc ghế nhìn con dâu khỏa thân trong phòng tắm. Nhưng Khiêm-nhân viên lò mổ, một gã đồ tể như “tacdang” giết lợn không gớm tay lại để dấu ấn nhờ hành động đứng ra bảo vệ Tốn và Sinh trước sự đối xử tệ bạc của gia đình. Và Tốn-cậu bé bệnh thần kinh, một nhân vật ngây ngô, khờ khạo, bệnh tật nhất trong truyện lại là người giàu tình yêu thương và có sự sáng suốt nhất bởi cậu nhận ra hiện trạng “không có vua” trong gia đình mình. Mỗi tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là một trò diễn của câu chữ. Trò diễn ngôn từ ấy được tạo nên bằng cách tạo sự rỗng nghĩa trong câu chữ và người đọc sẽ có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau, tùy theo trình độ tư duy và cách tiếp cận. Trong truyện ngắn Không có vua, trò diễn này được thể hiện qua nhan đề, sườn truyện và phát ngôn tư tưởng của tác giả. Về nhan đề, “Không có vua” đặt trong bối cảnh của diễn biến truyện có thể được hiểu như sau “Vua” ở đây không chỉ là người có vai vế lớn nhất mà còn thể hiện trật tự cao thấp trong đạo lý cư xử của con người với nhau. Vua sẽ là người được tôn trọng nhất, kính nể nhất mà mọi người phía dưới đều sợ hãi; đồng thời, vua là người có trách nhiệm nặng nề nhất để lãnh đạo trật tự trong xã hội. Đối chiếu trong một gia đình thì người được mang vai trò “vua” ấy, được kính nể nhất và phải gánh vác trách nhiệm nặng nề nhất là người cha. Và trật tự trong gia đình ấy sẽ được đảm bảo theo tôn ti trật tự, vai vế. Ngay từ nhan đề tác phẩm, “Không có vua” tức là tác giả đã khẳng định mọi quyền hạn và trách nhiệm của người cao nhất trong gia đình đã bị bác bỏ và cái trật tự của xã hội nhỏ bé ấy hoàn toàn bị phá vỡ. Và gia đình của lão Kiền đã rơi vào hoàn cảnh “không vua” như thế. Mà “vua” đối với gia đình lão chính là đồng tiền. Về sườn truyện, cấu trúc của tác phẩm đi theo thứ tự các phần Gia cảnh-Buổi sáng-Ngày giỗ-Buổi chiều-Ngày tết- Ngày thường. Kết cấu tự sự đã trở nên mờ nhạt, khó nhận ra logic nhân quả theo trật tự thời gian. Kết cấu truyền thống đã bị phá vỡ, phân thành những mảnh nhỏ, mang lại cảm giác như một sự lắp ghép các sự kiện một cách ngẫu nhiên của ý thức. Đồng thời, truyện của Nguyễn Huy Thiệp phá vỡ quan niệm về sự xác tín trong lời phát ngôn của nhân vật. Lời nhân vật có khi trái ngược hoàn toàn với tư tưởng tác giả gửi gắm. Thế giới trong Không có vua với những nhân vật hành động và nói năng đầy vô nghĩa; qua đó nhà văn đưa đến cho người đọc sự trăn trở về ý nghĩ cuộc sống trên hành trình đi tìm hạnh phúc của con người. Ta thấy hầu như các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đều mang một tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại như thế. Nó góp phần hình thành nên một xu hướng văn học đang phát triển hiện nay xu hướng tìm tòi cách tân theo hậu hiện đại. Xem thêm Yếu tố hậu hiện đại trong "Tướng về hưu" - Nguyễn Huy Thiệp Yếu tố hậu hiện đại trong "Vàng lửa" - Nguyễn Huy Thiệp

không có vua nguyễn huy thiệp